Người Lô Lô ở miền cao nguyên đá Hà Giang
Người Lô Lô là một trong 54 dân tộc sinh sống, làm việc, lao động và học tập tại Việt Nam.
Đó là tên
gọi chính thức của Nhà nước đối với dân tộc thiểu số này,
khi trong lịch sử, họ mang những tộc danh khác nhau: Mùn Di, Màn
Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc, Màn. Bao phủ và rộng hơn cả
những tên gọi này là Di tộc - những tộc người sống ở phía Nam
Tây Nguyên. Địa bàn cư trú của dân tộc Lô Lô ở Việt Nam chủ
yếu ở các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang), Bảo Lạc
(tỉnh Cao Bằng), hay Mường Khương (tỉnh Lào Cai) và Lai Châu.
Thiếu nữ dân tộc Lô Lô. |
Tổng điều tra dân số năm 1999, người
Lô Lô ở Việt Nam có 3307 người, mười năm sau đó, 2009, dân số Lô
Lô lên 4541 người và địa bàn phân bố mở rộng tới 63 tỉnh, thành
phố, do nhu cầu làm ăn, sinh sống, làm việc, học tập với
những nhóm hoặc cá nhân nhỏ lẻ, không phải là cộng đồng cư
trú hoặc địa bàn cư trú truyền thống.
Người Lô Lô chủ yếu trồng ngô, làm
lúa nương. Họ mang nhiều dòng họ khác nhau. Người trong mỗi
dòng họ thường cộng cư trong không gian truyền thống là làng.
Cộng đồng dân tộc này chia thành hai nhóm, không mấy riêng biệt: Lô Lô Hoa hay Di trắng là bình dân. Lô Lô đen hay Di đen: là quý tộc.
Người Lô Lô nói tiếng Lô Lô hay tiếng
Di, là một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Tạng – Miến trong ngữ hệ
Hán – Tạng. Dân tộc này cũng có chữ viết riêng theo vần chữ
của họ trước đây là chữ tượng hình, nhưng hiện nay không còn
dùng. Khoảng thế kỷ 14, người Lô Lô đã có chữ viết tượng hình
với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để
diễn đạt nghĩa. Chữ được khắc ghi trên những tấm gỗ mỏng, da
thú, giấy dầy, thô. Hiện nay, còn một số gia đình có loại văn
bản này, nhưng ít ai có thể đọc.
Lễ hội cầu mưa của người Lô Lô. |
Hôn nhân của người Lô Lô là một vợ,
một chồng, theo nguyên tắc “thuyền theo lái, gái theo chồng”.
Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán qua
việc thách cưới cao. Con trai cô có thể lấy con gái cậu, nhưng
không ngược lại.
Người Lô Lô có một kho tàng văn hóa
dân gian đa dạng và đặc sắc, được thể hiện qua các điệu nhảy
múa, hát ca, truyện cổ… Nghệ thuật tạo hình của họ đặc sắc
qua các hoa văn trang trí trên váy, áo, khăn với màu sắc rực
rỡ, rất ấn tượng trong số các trang phục truyền thống các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam.
Lịch của người Lô Lô chỉ có 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với tên một con vật.
Đặc biệt hơn cả của cộng đồng Lô Lô
là họ có di sản văn hóa trống đồng. Trống được bảo quản,
giữ gìn bằng cách chôn xuống đất và đến khi sử dụng thì đào
lên. Tộc trưởng của mỗi họ là người được giữ trống. Trống
được dùng trong các đám tang hoặc đánh lên giữ nhịp cho các
điệu múa. Lô Lô là một số ít các dân tộc ở Việt Nam hiện còn
sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống của người Lô Lô gắn
liền với huyền thoại nạn hồng thủy. Đó là một nạn lụt lớn,
nước dâng cao tới tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu, để
chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát
chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt, họ ở trên núi,
sống với nhau thành vợ, thành chồng. Truyền thuyết này nảy
sinh cặp phạm trù Đực - Cái, bắt nguồn từ quan niệm âm - dương,
sự sinh sôi nảy nở được lưu tồn trong các bộ đôi trống đồng.
Sự hòa tấu giữa hai trống đực - cái chính là biểu hiện của
âm - dương giao hòa.
Trống còn được treo trên giá, đặt ở
phía chân người chết, mặt của hai trống quay lại với nhau.
Người đánh trống đứng giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ
một đầu dùi đánh một trống. Chỉ có người đàn ông chưa vợ,
hoặc có vợ không trong thời kì thai nghén mới được đánh trống.
Trống đồng không chỉ là tài sản
quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính tâm
linh. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được
đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên.
Ngoài tín ngưỡng liên quan tới trống
đồng, người Lô Lô còn có tín ngưỡng đa vật linh. Sau này, một
số nhóm Lô Lô cũng du nhập Đạo giáo cùng với Phật giáo vào
đời sống tâm linh của cộng đồng.
Tang ma của người Lô Lô có nhiều
phong tục, lễ thức độc đáo như hóa trang, nhảy múa, đánh lộn…
Dấu tích của tục săn đầu lâu còn thể hiện khá rõ ở hiện
tượng, một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay
quả bầu vẽ mặt người trong tang ma.
Người Lô Lô ở Việt Nam có lịch sử lâu đời, có nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc. |
Người Lô Lô cư trú thành làng. Họ
lập làng ở lưng chừng núi và dường như mỗi làng là một dòng
họ. Nhà cửa bố trí khá tập trung, mỗi làng truyền thống có
từ 20 – 30 nóc nhà. Người Lô Lô có 3 loại nhà khác nhau: nhà
đất, nhà sàn, nhà nửa đất nửa sàn.
Trang phục của người Lô Lô có nam và
nữ. Nam giới thường mặc áo xẻ nách năm thân dài tới gối, màu
chàm. Quần cũng là loại xẻ dùng màu chàm. Trong tang ma, mặc
áo dài xẻ nách, trang trí hoa văn theo từng chi và dòng họ.
Phụ nữ Lô Lô để tóc dài quấn ngang
đầu. Họ cũng dùng khăn quấn thành nhiều lớp trên đầu hoặc
đội. Khăn trang trí hoa văn và tạo tua sặc sỡ. Các nhóm Lô Lô ăn
mặc có sự khác nhau. Xưa người Lô Lô phổ biến loại áo dài cổ
vuông, ống tay áo dài nối vào thân, có thể tháo ra được. Cạnh
đó còn có loại áo ngắn xẻ ngực, cổ cao tròn, cài cúc. Nhóm
Lô Lô trắng có áo dài lửng, ống tay rộng, xẻ nách cao theo
kiểu đuôi tôm, cổ áo, gấu áo trước sau được trang trí hoa văn
trên nền sáng, hoặc tối màu như màu chàm nhưng ít trang trí hoa
văn. Cũng có nhóm Lô Lô mặc quần, đi giầy vải.
Người Lô Lô ở Việt Nam có lịch sử
lâu đời, có nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc. Để tìm
hiểu được sâu sắc dân tộc này, đương nhiên không thể chỉ một
bài giới thiệu ngắn. Thế nhưng, thông tin cơ bản này chắc sẽ
giúp bạn đọc – những người quan tâm đến với làng Lô Lô để trải
nghiệm, chắc chắn sẽ có nhiều gặt hái, thu hoạch qua những
chuyến đi đầy thú vị.
0 Nhận xét