Cột cờ Lũng Cú trên đỉnh núi Rồng Cao Nguyên Đá Đồng Văn
Trên bản đồ Việt Nam, Lũng Cú là một 'chóp nón' đầy kiêu
hãnh, là vùng đất mà người Việt nào cũng mơ ước được một lần đặt chân
đến. Tọa lạc ở nơi cao nhất của 'mỏm cực Bắc', Cột cờ Lũng Cú - di tích
lịch sử quốc gia đã trở thành biểu tượng thiêng liêng của chủ quyền Tổ
quốc Việt Nam.
Điểm đến hấp dẫn
Trong
những ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi đến Hà Giang, ghé thăm cột cờ
Lũng Cú - điểm cao nhất của cực Bắc Việt Nam. Từ thành phố Hà Giang đến
Đồng Văn, chúng tôi trải qua chặng đường gần 200 km đường núi, với những
đoạn cua tay áo đến chóng mặt. Và rồi, sau hơn nửa ngày vật vã, chúng
tôi cũng “bò” được lên đến địa phận xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, nơi có
Di tích lịch sử quốc gia Cột cờ Lũng Cú.
Cột cờ Lũng Cú Hà Giang |
Nhìn từ dưới lên, cột cờ Lũng Cú sừng sững trên
đỉnh núi Rồng, lá cờ đỏ sao vàng tung bay phần phật trong gió đầy kiêu
hãnh. Vừa là di tích lịch sử, vừa là điểm cực Bắc Tổ quốc linh thiêng,
hùng vĩ, nên nhiều năm qua, di tích Cột cờ Lũng Cú luôn là một điểm đến
yêu thích của hàng vạn du khách gần xa.
Theo
chân các du khách đến từ khắp mọi miền đất nước, chúng tôi lên thăm Cột
cờ Lũng Cú - di tích lịch sử linh thiêng, hào hùng của dân tộc. Đường
lên Cột cờ quốc gia Lũng Cú được xây dựng với tổng số 839 bậc thang,
chia làm 3 chặng. Chặng đầu tiên 425 bậc, kéo dài từ chân núi lên vị trí
nhà chờ. Chặng thứ 2 gồm 279 bậc, từ vị trí nhà chờ lên đến chân cột cờ
và chặng thứ ba là 135 bậc nằm trong lòng cột cờ.
Mỗi
bước đi trên bậc thang dẫn lên đỉnh cột cờ, chúng tôi được trải qua
những cung bậc cảm xúc khác nhau. Càng lên cao, cảnh đẹp của Lũng Cú
càng trở nên huyền ảo. Từ trên cao nhìn xuống, du khách có thể thỏa thê
ngắm nhìn núi non trùng điệp, hùng vĩ nơi địa đầu Tổ quốc, không khỏi
ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tựa như một bức tranh thủy mặc khổng lồ của vùng
đất này. Xen lẫn cảnh đẹp kỳ vĩ ấy, là những nếp nhà trình tường, những
mái ngói âm dương cổ kính bảng lảng làn khói lam chiều từ bản Lô Lô
Chải, bản người dân tộc Mông dưới chân cột cờ, để rồi cảm nhận sự hòa
quyện giữa thiên nhiên và con người nơi miền biên ải.
Từ
chân cột cờ, men theo những bậc thang hình xoắn ốc, để leo lên đỉnh cột
cờ. Và rồi, cái cảm giác thoát ra từ không gian nhỏ hẹp, mờ tối để bước
ra giữa khoảng trời bừng sáng, cao ngất trên đỉnh cực Bắc, được ngắm
nhìn lá cờ linh thiêng tung bay phần phật, kiêu hãnh trong nắng, gió
vùng biên ải, được chạm tay vào lá cờ đỏ thắm khiến chúng tôi tràn ngập
xúc động và cũng rất đỗi tự hào.
Anh Đoàn Như,
một du khách đến từ thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: “Trải nghiệm cảm giác
khi đến thăm Cột cờ Lũng Cú, nơi cực Bắc Tổ quốc là niềm vinh dự đối
với bất kỳ công dân Việt Nam nào và với tôi cũng không ngoại lệ. Đây là
lần đầu tiên tôi đến Lũng Cú, được chạm tay vào và tận hưởng cảm giác
mềm mại từ lá cờ thiêng liêng, cảm xúc thật khó tả. Tôi vô cùng tự hào
vì mình đã được đến đây”. Và, chắc hẳn, đây cũng là cảm giác của rất
nhiều du khách khi đến đây.
Linh thiêng Cột cờ Lũng Cú
Những
ai đặt chân đến Cột cờ Lũng Cú, chắc hẳn sẽ không quên được câu chuyện
nhuốm màu huyền thoại về đỉnh Lũng Cú, mà cô thuyết minh viên duyên dáng
vẫn thường kể mỗi khi có du khách đến thăm. Chuyện kể rằng, Lũng Cú là
nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc, trong đó nhiều nhất là đồng bào
Mông và Lô Lô.
Lũng Cú có nhiều tên gọi, theo
cách gọi dân dã, mộc mạc của đồng bào dân tộc Mông, thì Lũng Cú là Lũng
ngô (vì theo tiếng Mông, cú có nghĩa là ngô). Còn đồng bào dân tộc Lô Lô
thì gọi Lũng Cú là Long Cư - nơi rồng ở theo phiên âm tiếng Hán. Tương
truyền rằng, khi xưa, rồng tiên xuống trần gian du ngoạn, yêu mến cảnh
sắc tuyệt vời ở nơi đây, mà đậu xuống ngọn núi trước làng, chính là ngọn
núi Rồng ngày nay.
Yêu mến mảnh đất này, nhưng
rồng tiên cũng nhận thấy cuộc sống của người dân nơi đây vô cùng cực
khổ, thiếu nước sinh hoạt trầm trọng, nên trước khi về trời, rồng tiên
động lòng trắc ẩn, đã để hai con mắt của rồng tại nơi này. Và hai mắt
rồng đã hóa thành hai hồ nước ngọt ở hai bên chân núi. Một hồ nước của
làng Thèn Pả (thuộc làng dân tộc Mông) và một hồ nước của làng dân tộc
Lô Lô.
Nhờ có 2 hồ nước ngọt này mà cuộc sống
của người dân nơi đây đã bớt phần vất vả. Điều kỳ diệu là, dù thời tiết
có khô hạn thế nào, nước ở hai hồ này không bao giờ cạn. Xưa kia, người
dân trong làng vẫn sử dụng nước ở hai hồ để ăn uống và sinh hoạt. Nhưng
ngày nay, nhờ có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã xây dựng cho các hộ
gia đình những bể chứa nước mưa tại nhà, chính vì vậy, người dân không
sử dụng nước ở hồ để sinh hoạt nữa, mà chỉ sử dụng để tưới tiêu phục vụ
mùa màng.
Cùng với truyền thuyết về núi Rồng của
cô hướng dẫn viên, chúng tôi còn được nghe câu chuyện lịch sử đầy oai
hùng về Cột cờ Lũng Cú từ một cán bộ của Đồn Biên phòng Lũng Cú. Theo
Thượng tá Phạm Ngọc Thủy, Bí thư Đảng ủy, Chính trị viên - Đồn Biên
phòng Lũng Cú, sử sách ghi lại, di tích Cột cờ Lũng Cú ra đời từ thời
Lý. Khi xưa, Thái úy Lý Thường Kiệt hội quân về trấn ải vùng đất biên
thùy, đã cho cắm một lá cờ trên đỉnh núi Rồng, để khẳng định chủ quyền
lãnh thổ của đất nước ta. Nhờ cột cờ này, mà suốt chiều dài lịch sử,
mảnh đất biên ải nơi cực Bắc được tồn tại đến hôm nay.
Cột cờ Lũng Cú trên đỉnh núi Rồng Cao Nguyên Đá Đồng Văn |
Đến thời Tây Sơn, khi vua Quang Trung đánh tan quân
xâm lược, đã nhận ra tầm quan trọng của vùng đất biên ải này và đã cho
xây dựng một đồn gác nơi đây, dưới đồn gác cho đặt một trống đồng, mỗi
một canh được đánh lên ba hồi đĩnh đạc, vang xa để khẳng định chủ quyền
lãnh thổ. Cũng vì lẽ đó, mà mảnh đất này còn có tên gọi là Long Cổ (tức
trống của vua). Đến năm 1978, Đồn Công an nhân dân vũ trang Lũng Cú (nay
là Đồn Biên phòng Lũng Cú) cho cắm cột cờ tại đỉnh núi Rồng tại vị trí
bây giờ. Lúc đó cột cờ chỉ bằng cây sa mộc, cao 12 m, lá cờ rộng 1,2 m2.
Năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, đỉnh núi Rồng được lực
lượng Công an nhân dân vũ trang Lũng Cú đóng chốt ở đó để bảo vệ núi
Rồng.
Đến năm 2000, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hà Giang,
đã cho phép huyện Đồng Văn xây dựng công trình mang tầm cỡ quốc gia, và
cột cờ bằng bê tông cốt thép được xây dựng, thay cho cột cờ bằng gỗ lúc
bấy giờ. Để phù hợp với cột cờ to và bề thế, thì lá cờ rộng 54 m2 được
ra đời từ đó. Với những giá trị lịch sử sâu sắc, ngày 18/11/2009, Nhà
nước đã công nhận Cột cờ Lũng Cú là Di tích lịch sử quốc gia.
Năm
2010, khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng lên thăm Cột cờ Lũng Cú,
đã đồng ý cho phép Hà Giang xây dựng cột cờ mới to đẹp hơn, bề thế hơn
để khẳng định vị thế của đất nước ta trong công cuộc đổi mới, và khẳng
định chủ quyền quốc gia dân tộc.
Cột cờ Lũng Cú
hiện nay được khởi công ngày 8-3-2010, hoàn thành vào đúng ngày Quốc
khánh, ngày 2-9-2010. Cột cờ tọa lạc trên đỉnh núi Rồng, có độ cao 1.468
m so với mặt nước biển. Tổng chiều cao gần 35m, lá cờ rộng 54 m2, tượng
trưng cho 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Dưới
chân cột cờ có 8 bức phù điêu bằng đá xanh, trên 8 bức phù điêu là
những hình ảnh minh họa quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta,
đan xen vào đó là các nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng các dân tộc ở Hà
Giang. Phía trên 8 bức phù điêu có gắn 8 mặt trống đồng, vừa là biểu
trưng của văn hóa Việt Nam, vừa để nhớ đến tiếng trống của vua Quang
Trung khi xưa, để con cháu ngàn đời sau nhớ đến công dựng nước của ông
cha ta ngày trước.
Thượng tá Phạm Ngọc Thủy cho
biết, trong suốt những năm tháng chiến tranh và đến mãi sau này, nhiệm
vụ bảo vệ lá cờ Tổ quốc trên đỉnh Lũng Cú được giao cho cán bộ chiến sỹ
Đồn Biên phòng Lũng Cú. Khi lá cờ bạc màu hoặc bị rách, các chiến sỹ
thay thế bằng một lá cờ mới. Những hôm gió quẩn, lá cờ cuốn vào thân
cột, anh em chiến sỹ phải trèo lên gỡ lá cờ ra, để lá cờ tiếp tục tung
bay kiêu hãnh.
“Những lá cờ Tổ quốc trên Cột cờ
Lũng Cú, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đã phai màu vì nắng mưa hay bị
rách vì mưa gió được đơn vị giữ lại, và làm quà tặng cho những đoàn
khách đặc biệt đến thăm Lũng Cú. Đến nay, lá cờ Tổ quốc trên đỉnh Lũng
Cú đã trở thành một kỷ vật thiêng liêng, mà rất nhiều đoàn công tác mong
muốn có được”, Thượng tá Phạm Ngọc Thủy cho biết.
0 Nhận xét